image banner
TÀI LIỆU TUYÊN TRUYỀN về cuộc đời và sự nghiệp của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực (1838-1868)

I. Tiểu sử của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực (1838-1868)

Anh hùng dân tộc (AHDT) Nguyễn Trung Trực tên thật Nguyễn Văn Lịch, còn gọi là Chơn, sinh năm 1838 tại Xóm Nghề, thôn Bình Nhựt, tổng Cửu Cư Hạ, huyện Cửu An, nay thuộc xã Thạnh Đức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Nội tổ của AHDT Nguyễn Trung Trực là ông Nguyễn Văn Đạo- vốn là một ngư dân ở huyện Phù Cát, phủ Quy Nhơn, di cư vào Xóm Nghề trong cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. 

Xuất thân trong một gia đình làm nghề chài lưới đã nhiều đời, lại có nguồn gốc từ quê võ Bình Định nên AHDT Nguyễn Trung Trực rất giỏi về võ nghệ. Thuở nhỏ, ông theo học võ tại khu vực kinh Bảo Định - nơi phát tích của đạo quân Đông Sơn với căn cứ Ba Giồng nổi tiếng vào cuối thế kỷ XVIII. Năm 18 tuổi, ông từng thượng đài tại chợ Cai Tài (phủ lỵ phủ Tân An) và thủ võ đài suốt 3 ngày liền nên tiếng tăm vang dội khắp nơi. Tuy nhiên, ông không hề kiêu căng tự phụ mà rất mực khiêm cung, điềm đạm. 

II. Hoạt động của AHDT Nguyễn Trung Trực trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1859-1868)

Xuất thân là dân chài, giỏi võ nghệ, quả đảm, người dân chài Nguyễn Trung Trực đã cùng với hàng ngàn nghĩa quân đứng lên, lấy sức trẻ và lòng yêu nước, dựng cờ khởi nghĩa để bảo vệ quê hương trước sự xâm lăng của thực dân Pháp. Ngày 17/2/1859, thực dân Pháp nổ súng tấn công thành Gia Định. Gia Định thất thủ, Nguyễn Tri Phương được triều đình cử vào phụ trách. Ông cho đắp đại đồn Kỳ Hòa để chống giữ quân Pháp. Lúc này, đạo quân đồn điền của Trương Định cũng đang tham gia phòng thủ đại đồn Kỳ Hòa. Nguyễn Trung Trực vốn ở trong hàng ngũ của Trương Định ngay từ buổi đầu tiên và được phong chức Cai đội trong đạo quân đồn điền. Ngày 24/2/1861, đại đồn Kỳ Hòa thất thủ, Trương Định lui về Gò Công, phong cho Nguyễn Trung Trực làm Quyền sung Quản Binh đạo (gọi tắt là Quản binh), hoạt động kháng Pháp tại địa bàn phủ Tân An, mọi người thường gọi ông là Quản Lịch hay Quản Chơn. Cuối tháng 3/1861, quân Pháp từ Vũng Gù (thành phố Tân An ngày nay) theo kinh Bảo Định đánh chiếm thành Định Tường. Nguyễn Trung Trực chỉ huy nghĩa quân chặn đường hành quân của giặc Pháp, diệt tên chỉ huy là trung tá Bourdais và 30 lính. 

Vào đầu thập niên sáu mươi của thế kỷ XIX, lo sợ trước phong trào kháng chiến ngày càng mạnh mẽ của nhân dân Nam Kỳ, quân Pháp đã điều động một tàu chiến mang tên là L’Espérance (Hy Vọng) án ngữ ở vàm sông Nhựt Tảo, con sông nối liền sông Vàm Cỏ Đông với sông Vàm Cỏ Tây thông qua kinh ông Hóng và rạch Châu Phê. Chiếc tàu này được người Pháp gọi là tàu kiểu lorcha bằng gỗ bọc đồng, là loại tàu khá hiện đại. Trên tàu có trang bị một khẩu đại bác và khoảng 45 lính Pháp, lính Mã tà và lính Tagals được trang bị đầy đủ vũ khí chiến đấu, đặt dưới sự chỉ huy của một viên Trung úy Hải quân người Pháp tên là Parfait, sẵn sàng đàn áp các cuộc nổi dậy của nhân dân trong vùng. Trước thời điểm xảy ra trận đánh, địch huy động 20 lính lên đóng đồn tại chợ Nhựt Tảo, trên tàu chỉ còn khoảng 25 lính. 

Được sự giúp đỡ của hương chức làng Nhựt Tảo như Hồ Quang Minh, Hồ Quang Chiêu, Nguyễn Trung Trực đã xây dựng một kế hoạch táo bạo, thông minh để đánh tàu L’Espérance. Ông đã theo dõi kỹ quy luật hoạt động cũng như việc canh phòng, bố trí hỏa lực của địch. Sau khi đã nắm chắc những thông tin cần thiết, ông đã lập kế hoạch rất cụ thể cho các lực lượng, sẵn sàng hành động. Để phân tán lực lượng địch, hương chức làng Nhựt Tảo tổ chức cúng chùa Ông, mời gánh hát bội đến biểu diễn và cho mời lính Pháp trên tàu đến xem, đồng thời bố trí nghĩa quân phục kích xung quanh chùa, chờ khi Nguyễn Trung Trực đánh tàu dưới sông thì cùng lúc tràn vào chùa tiêu diệt gọn toán lính Pháp này. 

Sáng ngày 10/12/1861, sau khi bố trí lực lượng phục kích trên bờ và dụ cho một bộ phận quân địch rời khỏi tàu, Nguyễn Trung Trực đã cùng 59 nghĩa quân lên 5 ghe giả làm ghe buôn lúa tiến sát tàu địch. Trong lúc trình giấy thông hành, ông bất ngờ giết tên lính gác rồi cùng nghĩa quân tràn lên tấn công quân Pháp trên tàu L’Esperance. Không kịp trở tay, đa số địch trên tàu bị tiêu diệt (chỉ có 5 tên chạy thoát). Nghĩa quân dùng dầu và đồ dẫn hỏa đốt cháy tàu. Ngọn lửa bốc cao ngùn ngụt nhấn chìm tàu xuống đáy sông. Toán lính đóng ở chợ Nhựt Tảo cũng bị nhóm nghĩa quân do hương thân Hồ Quang Chiêu chỉ huy tiêu diệt gọn. Tin chiến thắng Nhựt Tảo bay đi làm nức lòng quân dân cả nước. Triều đình Huế thăng Nguyễn Trung Trực lên chức Quản Cơ, hậu thưởng cho nghĩa quân, cấp tử tuất và hỗ trợ tiền cho làng Nhựt Tảo (đã bị quân Pháp triệt hạ sau trận đánh). Nối tiếp khí thế hào hùng đó, ngay sau trận Nhựt Tảo, nghĩa quân đồng loạt nổi dậy công phá hệ thống đồn lũy của Pháp ở 3 tỉnh miền Đông, trong đó có trận Cần Giuộc (16/12/1861) đã đi vào lịch sử cùng với bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc bất hủ. 

Sau trận Nhựt Tảo, danh tiếng Nguyễn Trung Trực vang dội khắp nơi, phạm vi hoạt động của ông lan rộng ra khu vực miền Đông Nam Kỳ. Ngày 16/12/1862, ông cùng nghĩa quân tấn công một tiểu hạm của Pháp đậu ở rạch Tra (xã Hựu Thạnh, huyện Đức Hòa), diệt đại úy Thouroude và một số lính Pháp. Mười ngày sau trận đánh, trung tướng Bonard, Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp phải ra lời kêu gọi quân sĩ dưới quyền, động viên, trấn an vì bọn này đang sa sút tinh thần nghiêm trọng. Nghĩa quân của Nguyễn Trung Trực hoạt động xuất quỷ nhập thần, khiến thực dân Pháp hoảng hốt, treo giá đầu ông 18 vạn quan tiền. Đầu năm 1867, ông nhậm chức Lãnh binh Bình Định. Giữa năm 1867, ông được phong chức Thành thủ úy tỉnh Hà Tiên, nhưng chưa đến nhiệm sở thì tỉnh Hà Tiên đã thất thủ, vì thế ông lui về Hòn Chông lập căn cứ chống Pháp. 

Đêm 16/6/1868, Nguyễn Trung Trực chỉ huy 100 nghĩa quân trang bị gươm giáo, dùng ghe biển từ Hà Tiên lên Rạch Giá. Khoảng 4 giờ sáng 17/6, nhân lúc trời mưa, nghĩa quân đột nhập đồn Rạch Giá tiêu diệt 72 tên Pháp, trong đó có viên Chánh chủ tỉnh và trung úy đồn trưởng Sauteme. Nghĩa quân thu được 100 khẩu súng, bắt giữ 5 lính Pháp và làm chủ hoàn toàn tỉnh lỵ Rạch Giá. Nghe tin đồn Rạch Giá thất thủ, quân Pháp huy động lực lượng tấn công tái chiếm tỉnh thành vào chiều ngày 21/6/1868. Sau khi Pháp tái chiếm Kiên Giang, Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa quân ra đảo Phú Quốc tiếp tục kháng chiến. Để tiêu diệt cho được người đã từng gây ra những tổn thất to lớn cho thực dân Pháp, chúng đã huy động lực lượng bao vây đảo Phú Quốc. Sau một số trận chiến không cân sức, nghĩa quân bị tiêu hao dần. Bên cạnh đó, thực dân Pháp một mặt chiêu dụ ông đầu hàng, hứa phong chức tước, mặt khác bắt mẹ ông và nhân dân trên đảo làm con tin. Cuối cùng, ông đã hy sinh thân mình để cứu dân và bảo toàn lực lượng để chờ thời cơ. Thực dân Pháp đưa ông về Sài Gòn, dùng danh lợi ra chiêu dụ ông đầu hàng nhưng ông khẳng khái chối từ. Thấy không lay chuyển được lòng dạ sắt son của ông, thực dân Pháp đưa ông về Rạch Giá xử chém vào ngày 27/10/1868 (nhằm ngày 12/9 năm Mậu Thìn). 

AHDT Nguyễn Trung Trực hy sinh, để lại cho đời câu nói bất hủ: “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”. Cuộc đời và sự nghiệp của vị anh hùng dân chài, áo vải Nguyễn Trung Trực cùng với những chiến công hiển hách trong phong trào vũ trang kháng Pháp cuối thế kỷ XIX được danh sĩ Huỳnh Mẫn Đạt đúc kết qua 2 câu thơ: 

“Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa

Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần”.

Cảm phục trước tấm lòng yêu nước sắt son và công lao của người anh hùng dân chài đối với quê hương, sau khi ông mất, theo quan niệm “Sinh vi tướng, tử vi thần”, nhân dân ở nhiều địa phương thuộc đồng bằng sông Cửu Long đã lập đền thờ ông và tổ chức cúng tế rất trọng thể hằng năm. 

Trong lịch sử chống ngoại xâm vào nửa sau thế kỷ XIX, AHDT Nguyễn Trung Trực là một trong những người yêu nước tiêu biểu, đặc biệt: Ông tham gia chống Pháp từ những năm đầu tiên Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam. Với trận Nhựt Tảo ông là người cầm quân đầu tiên ở Việt Nam tiêu diệt “pháo đài nổi” của quân đội Pháp. Trận tập kích đồn Rạch Giá, ông là thủ lĩnh nghĩa quân duy nhất ở đất Nam kỳ đánh chiếm lại được đồn trung tâm tỉnh lỵ sau tháng 8/1867, khi thực dân Pháp thôn tính 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ. AHDT Nguyễn Trung Trực kháng Pháp với những nét độc đáo riêng: Ông xuất thân trong một gia đình làm nghề chài lưới, trong khi đó hầu hết các lãnh tụ kháng chiến lúc bấy giờ như Trương Định, Võ Duy Dương, Nguyễn Hữu Huân... đều xuất thân từ tầng lớp quan lại, trí thức phong kiến; đồng thời ông cũng là người đầu tiên kháng Pháp giành được thắng lợi. 

Với những đóng góp to lớn của AHDT Nguyễn Trung Trực trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bảo vệ Tổ quốc, tại Long An, từ năm 1989, Ủy ban nhân dân tỉnh đã triển khai nhiều hoạt động như: Xây dựng Bia lưu niệm tại Xóm Nghề, xã Thạnh Đức, huyện Bến Lức; Nhà lưu niệm và Bia chiến thắng tại Vàm Nhụt Tảo, xã An Nhựt Tân, huyện Tân Trụ. Tàu L’Espérance đã được khai quật (năm 1989) sau gần 130 năm đắm chìm dưới đáy sông Nhựt Tảo. Nhiều hiện vật có chất liệu bằng gỗ, sắt, đồng... đã được bảo quản và trưng bày tại Bảo tàng Long An nhằm giới thiệu khách tham quan về chiến công oanh liệt của anh hùng Nguyễn Trung Trực. Di tích Vàm Nhựt Tảo đã được Bộ Văn hóa- Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích quốc gia tại Quyết định số 1460-QĐ/VH ngày 28/6/1996./.

 image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
 
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
THỐNG KÊ TRUY CẬP
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tháng: 1
  • Tất cả: 1
Thư viện ảnh